- Ô Đề là tên thôn
- Giang Phong, Ngư Hỏa đều là địa danh
- Sầu Miên là tên núi...
Cụ thể là cách hiểu của các tác giả Thái Anh, Trần Yên Thảo, Trần Đắc Thọ…Tuy nhiên, những ý kiến này chưa có những chứng cứ thật đáng tin cậy. Qua những bài viết phản hồi của những nhà nghiên cứu lão thành như Nguyễn Khắc Phi, Kiều Thu Hoạch…nhìn chung cách hiểu truyền thống vẫn tỏ ra ưu thế hơn).
Nguyên tác chữ Hán
月落烏啼霜滿天
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Phiên âm:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khác thuyền.
Dịch nghĩa
Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời
(Khách) nằm ngủ trước cảnh buồn của đèn chài và lùm cây phong bên sông.
Chùa Hàn Sơn ở ngoài thành Cô Tô
Nửa đêm tiếng chuông văng vẵng vọng đến thuyền khách
Dịch thơ
Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chày cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
(K.D dịch, trong Thơ Đường, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Phong Kiều dạ bạc, là thi phẩm có sức thu hút mạnh mẽ đối với độc giả của nhiều thế hệ. Có lẽ, sức thu của thi phẩm này ở cách tạo dựng ngôn từ nghệ thuật đặc sắc.